Thơ Phù Hư

Image

Lần nữa ta trở lại với thơ Phù Hư.

Phù Hư tên thật Nguyễn Đắc Ngân, sinh ngày 17 tháng Chạp năm Canh Dần (24 tháng 1-1951), tại Hải Dương. Thuở nhỏ ông học và sống ở Huế; từ năm 1972 tới nay, định cư tại Saigon. Ông đã có thơ đăng các báo Khởi Hành, Văn, Thời Tập, Đứng Dậy, Mỹ Thuật Thời Nay v.v.

Thơ Phù Hư trước hết là thơ chiến tranh. Ở mảng thơ này, ta gặp những nét hung bạo khốc liệt của chiến trận giữa đá núi cây rừng suối khe tàn độc và tiếng pháo dội đêm đêm. Bên cạnh đó là những câu thơ tình đời thường, nghĩa là không có vẻ gì khinh bạc số phận rủi may vì mũi tên hòn đạn vô tình mà bỏ lại người yêu; chỉ là thơ nhắc nhở người vợ hiền hay người tình chưa cưới hãy chờ đợi, hãy lo cho con thơ, cho cha mẹ già, cho mảnh vườn hay ruộng nương lợi tức khiêm tốn. Như khi yểm quân cạnh nhà một thiếu phụ có chồng cũng đi lính đã rất lâu, không biết sống chết ra sao mà bặt tin tức gửi về -người lính chắc có ý nghĩ thầm kín khi đêm khuya nghe tiếng nàng thở dài, vì chàng ngủ bên hông nhà chỉ cách ngăn bởi một vách đất. Bài thơ này nhan đề “Ngậm Thẻ Qua Sông” với lời thơ gây cảm xúc, đã đóng góp một nét độc đáo vào thơ thời chiến ở Miền Nam.

Ngoài ra, Phù Hư còn có những bài thơ lục bát với ngôn ngữ đẹp, đầy sáng tạo của thơ lục bát đương thời.

SAO KHUÊ

Đồn sơn yểm

(trích)

đóng núi đồn xa đoàn pháo yểm quanh năm ngủ miết với chân mây nhìn sâu xuống vực nham hiểm đá thú rừng cành trút lá mặc cây

vào thu rồi đó đèo xao xác thung lũng vàng khô ẩn bóng nhà suối chia mương nhỏ gie ống nứa chuối mùa lốm đốm lá trổ hoa suối len khe đá âm mưu chảy đồn đóng binh ròng trận mạc xa

sơn yểm đỉnh cao muốn chống trời! binh sĩ nhàn cư quẩn quanh thôi cỏ không chừa lối đường xuống núi rượu hết từ khuya vắng tiếng người đêm lính trú buồn hâm bếp lửa nhìn nhau kể chuyện vãn cười chơi tay hơ than khói khô da thịt thuốc đốt từng khoanh giấu mặt người

đêm gió uhồn thổi muôn phương lũng hạ khuya tiếng sói tru buồn dư rượu ấm chi lòng khách núi thuốc từng khoanh cầm tiếng thở giữa hồn

chinh chiến đầu non chinh chiến trận ì ùng âm pháo dội quanh năm xóm cũ chừ em lo chạy loạn cha già xưa nhúm mộ bỏ bên đồng

Ngậm thẻ qua sông

thơm lửa hương khoai tiếng hát rừng

ven thôn vừa ghé buổi di quân

khói mẹ sau lều cơm chín tới nước em chè lá đậm phèn sông

tôi đời trận mạc xa quê quán buổi ghé nương em núp bóng nhà em nhớ thương chồng đóng đồn ải xa lâu tin vắng trông mòn đường xóm

tôi ởquá bên hông nhà gió sớm đợi giùm em tin chinh chiến gởi về đêm nay mưa em mất ngủ khuya tôi lạnh gió tin địch về vẫn thức làng em ởgió lào qua rất độc ngày mưa mùa khuất núi mù sông mẹ già mong một mụn cháu đầu lòng em nhắn gởi bao lần tin vẫn biệt rụng vườn em trăng sương ngày tháng chạp tôi gác đêm như bóng người rình tối nay đạn nổ nhẹ mạn sông sương mỏng quá nhìn hoa ngàn con mắt tôi giữa đêm nghe mình như thất lạc thương xóm nhà biết nổ đạn vào đâu

đồng đội tôi ngủ mệt thôn sâu ngại làm động mẹ ho vừa chợp mắt tôi nương bóng nhà trăng che khuất ngồi co mình cho bóng bớt riêng tôi nhìn xa trăng định trốn sau đồi sông tiếng vạc dặm buồn như tiếng cú thức có khua mới nghe hồn bớt ngủ mới hay trăng tháng chạp úa quanh đời nghe em thở não mãi không thôi em thở đó hay gió kêu mùa giá nhà em ởmiệt đông xóm hạ bên triền sông không bến phải vắng thuyền đầu trăng con nước rất vô duyên lên mấp mé vườn em vai phơi áo em rất nhỏ ngày trông vào gánh gạo mẹ thì già vồn cải với nương rau bước sau hiên vui mẹ dây trầu mùa tốt lá xanh hồn tôi mới ghé buổi mới đến cau cao vừa nhú bẹ em thẹn thùa tôi tưởng thuở bình yên tôi đâu hay em có nỗi hờn riêng trông chinh chiến gọi hồn chồng theo gió một tháng tròn ngỡ như ngày thuở nhỏ

Trẻ MagazineNgày 6 tháng 2 -2025 Quảng cáo:

Tel.972-675-4383Ban Biên Tập:

em là em mẹ là mẹ xưa tôi lêu nghêu lúc đi sớm về trưa cơm nửa buổi giữa khuya kêu bụng đói nhà thưa quạnh tôi gượng vui chẳng nổi mẹ thẫn thờ em heo bóng trong sân

tôi trận mạc nhầu không kể đến thân sương nhiều lắm trời không che nằm đất em vẫn bảo tôi mái tranh không chật tôi cười xòa xó xỉnh miết đâm quen

tròn tháng rồi đấy nhớ không em hôm từ biệt quanh thôn nhà cửa khép lúc quân đi chắc em không hề biết đội tôi ngùi ngùi ngậm thẻ qua sông còn tôi co ro lạnh mãi gió đông một lần cuối nhìn nhà em đóng kín tin chồng em chắc chưa về đến bến như tin tôi mấy thuở gởi thăm nhà cũng mấy năm rồi biền biệt phương xa em còn nhớ một lần tôi ghé ở thơm lửa hương khoai vùi bếp cũ hồn em xa lắm cũng quanh đây

1972

Lục bát phù hư

“mây ngâm úng nước chiều trời chuông xô tháp nhọc nặng lời chia tay ởlâu nhà ngủ phố lầy nhạc phao tin ngựa rong đầy phố câm thấp hiên điện ủng tin buồn mười năm ngựa nhược theo phường bát âm…”

(Phù Hư, “Ngựa ô vong”)

“nẻo em cồn bão đêm tù núi khi tàn xuống biển từ dâng lên cách em đến mấy nghìn đêm môi còn ẩn nụ hôn riêng ban đầu.”

(Phù Hư, “Nụ hôn đầu”).

“… nghe ngày hạ phố thốt âm đậy chăn tôi vẫn tưởng lầm chiêm bao đêm còn lạnh với lên cao gió chen với nắng xôn xao cửa ngoài xa kèn huyễn vọng bên tai bến sâu giờ chắc phơi đầy biệt ly hối ngày xe đuổi nhau đi quán chôn tiếng khách bàn ghi chỗ ngồi…”

(Phù Hư, “Ngụy âm”)