NGỌC DIỆP

BẢO HUÂN MICROSOFT AI
Tuổi thơ của tôi từ nhỏ cho tới những năm sau khi Ba đi tù cải tạo về (1983) rồi đi định cư Mỹ theo chương trình H.O. là những năm tháng nhọc nhằn, đầy khó khăn, thiếu thốn nhưng rất vui, ấm cúng và vô cùng thú vị. Nhiều âm thanh và hình ảnh của miền tuổi thơ cứ như góp một phần vào ký ức ởNam Kỳ đầy thi vị, và phong phú. Ông Cố Nội hồi xưa là ông Hương Cả, nhưng rất thương người. Ông làm thầy thuốc Nam chuyên chữa rắn cắn. Nghe kể lại là có người bị rắn cắn sùi bọt mép rồi nhưng tới Ông thì được cứu sống. Nhà Nội tôi trước đây có rất nhiều ruộng đất, nhưng sau này bị mất hết. Lúc Ba tôi về, họ cho lại được có một công kiếm đủ gạo nuôi 7 miệng ăn.
Trong nhà coi như chỉ có hai thu nhập chánh là của Cô Út và Mẹ từ việc đi dạy. Mẹ tuy vẫn tiếp tục đi dạy nhưng không đủ ăn, lại còn phải đi dạy bổ túc ngày lẫn đêm.
Thấy Mẹ ráng xoay trở nhưng vẫn chật vật, tôi rất thương. Dù còn nhỏ chừng 11, 12 tuổi nhưng thấy Mẹ luôn phải lo toan tiền chợ trong túng thiếu, tôi cũng nghĩ đủ cách để giúp đỡ Mẹ phần nào. Hồi học lớp Năm tôi móc bao viết máy để bán cho mấy bạn cùng trang lứa. Lúc đó, viết Trung Quốc được nhập vào Việt Nam và học trò nào cũng có cây viết máy, có khắc tên bằng hoa văn bay bướm rất đẹp. Loại viết thân bằng nhựa đỏ huyết dụ có nắp mạ vàng, tiện dụng, không tèm nhem như loại viết chấm. Cô Út chỉ tôi đan và móc. Thế là, tôi móc bao viết bán cho mấy bạn cùng trang lứa. Thời điểm đó chắc tôi học lớp Năm. Có lúc, Mẹ làm kẹo chuối để tôi bán ở những buổi chiếu bóng ngoài trời của Hợp Tác Xã Phước Tân Hưng. Tôi cũng từng phụ Mẹ đi góp hụi. Có lần, Mẹ bị bà ba L. giựt hụi. Bà ấy không có tiền trả, đành gán lại bằng gà vì nhà bà bán gà đã làm thịt bán. Vậy là, nhà tôi có gà ăn… đều đều trong một thời gian, chớ bình thường thì bữa rau, bữa cháo rất đạm bạc cho qua bữa. Mỗi ngày, tôi ghé ngang lấy một con gà đã làm thịt. Lúc đó, tự nhiên nhà được ăn sướng với nhiều món gà như canh gà nấu khổ qua, gà kho, gà ram mặn, đủ món…
Trở lại với chuyện sát cá, nghe có vẻ sát khí đùng đùng, nhưng than ôi, lúc đói, hễ cái gì ăn được là ăn, có sá chi là sát sanh. Nhà Nội tôi thì gần sát sông, có cá nước mặn nhưng nếu muốn bắt cá nước lợ thì phải qua nhà bà Cô. Bà Cô là bà con Chú Bác ruột với Ông Nội tôi, nhà bà ở đối diện chênh chếch trước nhà Nội. Bà không cho tụi nhỏ hàng xóm thả câu trong mương nhà Bà nhưng lại đặc cách cho tôi, có lẽ vì Bà thấy bà con, lại nghèo. Tôi rất khoái bắt cá từ mương nhà của bà Cô, mương trước lẫn mương sau.

Cần câu cắm
Tôi bắt cá bằng những cách thức sau đây ở nhiều chỗ khác nhau: Câu cá, lưới cá, đặt lọp, và vó tép. Chắc hẳn quý độc giả có nghe qua câu hát nằm lòng của người miền Tây như sau:
Nếu mai thất nghiệp anh về quê cắm câu Bắt con nhái bầu, thả trên đầu cầu Chờ em đi qua anh thả câu Nếu câu em được em về làm dâu cho má anh.
Sát bên nhà tôi có Dượng Ba Loan làm lưỡi câu bán cho người đi cắm câu vào mùa mưa hay câu cá quanh năm. Cần câu dùng để cắm được làm bằng tre chẻ hoặc cây trúc mảnh khảnh, dài khoảng một cánh tay người, có dây dài khoảng vài gang tay. Người cắm câu mắc lưỡi câu vào cần, dùng con trùng đất làm mồi, xong, cắm câu ngoài đồng lúa. Thời đó, cá đâu quá chừng quá đỗi. Sau này phần vì thuốc trừ sâu, phần vì đồng lúa không còn canh tác lúa vì đất được dùng để trồng thanh long mang lại lợi nhuận kinh tế cao hơn. Tôi rất thích qua nhà Dượng Ba chơi. Nhà Dượng Ba có rất nhiều dụng cụ các thứ như máy giũa, đủ các loại đục để làm lưỡi câu. Suốt ngày, bà con lối xóm có thể nghe tiếng đục cộp cộp, tiếng giũa rèn rẹt, leng keng, tiếng khua lách cách cả ngày. Tôi cũng được chứng kiến việc làm lưỡi câu từ đầu tới cuối. Lưỡi câu làm bằng những cọng sắt mảnh mai không sét (stainless steel). Dượng có nhiều cọng sắt không sét với kích thước khác nhau, lớn thì câu cá lớn, nhỏ thì để câu cá nhỏ. Tôi còn nhớ mang máng những đoạn làm lưỡi câu là như vầy: cắt một cọng sắt cỡ gần một lóng tay, gắn vô một cái kẹp để đưa vô máy giũa, mài đầu cho nhọn. Xong, Dượng lấy đục, đục một cái móc cho bén để cá mắc vào, xong đặt nó vào khuôn để uốn thành hình lưỡi câu, cuối cùng bẻ ngược lại đầu kia để mắc nhợ vào. Tôi cũng học được cách cột sợi nhợ sao cho đừng sút ra. Tôi mua một cây cần câu bằng trúc, gắn nhợ vô, rồi gắn lưỡi câu vô. Xong, tôi gắn một khúc cỏ nổi ở giữa để làm phao.
Tôi chạy qua Dượng, í ới gọi:
- Dượng Ba ơi, bán cho con vài lưỡi câu để câu cá rô nha Dượng.
- Nay mày câu ở đâu? - Dạ câu mương bà Cô Dượng ơi. - Mồi trùng hay mồi sâu mậy?
- Dạ bằng sâu, con mới bắt một mớ sâu bông bụp kìa, toàn bự bự không hà.
Nghĩ lại mà thấy rùng mình, không hiểu sao hồi nhỏ tôi dạn ghê nơi. Những con sâu bông bụp màu xanh lè, có lông lá, hai mắt thò lõ, nhoi nhúc, nhìn thấy sợ. Cứ hễ lá nào cuồn cuộn lại, có chút phân rớt ra là có sâu.Tôi bắt con sâu ra, móc nó vô lưỡi câu, thả xuống nước một chút xíu giật lên, ngồi vài tiếng là được mớ cá rô đồng, mang về Mẹ kho tiêu ăn ngon lành. Năm đó tôi học cấp hai, học buổi chiều nên hễ thấy tụi bạn Nhi, Quí, Nam, Phong với Thu Loan của xóm dưới đi học ngang nhà là chạy về đi học. Bữa nào câu cá là khỏi phụ Nội nấu cơm.

Vó tép
Cũng có lúc tôi dùng trứng ong để móc mồi. Nghĩ lại sao lúc đó mình gan thật! Tôi đã từng nhiều lần thọc tổ ong vò vẽ bắt để làm mồi câu cá! Cũng may là tôi chưa bị ong đánh lần nào. Cũng có lúc tôi xài mồi trùng đào dưới đất xốp. Tôi lấy tay, ngắt con trùng ra, móc vô lưỡi câu. Ở bên trong con trùng là màu đen với chất dịch đen sì, nhưng không nhớt vì nó ăn toàn đất. Cứ hễ tôi ngắt nó ra thành mấy phần thì nó cũng ngúc ngoắc mấy phần thấy mà ghê! Nếu tôi thả lưỡi câu sâu xuống dưới đáy một chút sẽ câu được cá trê vàng. Con cá trê vàng có hai cái ngạnh dài thòng, nếu không biết cách bắt là nó chém cho chỉ có mà đứt tay, chảy máu. Cá trê vàng mà kho sệt sệt với chút gừng ăn với cơm trắng là ngon hết sẩy luôn! Có lắm lúc, tôi câu được con tôm. Ôi, tôi mừng như bắt được vàng, đem lên nhà ông Tám bán, nhà họ có thu mua tôm xuất cảng, xong đổi lấy gạch tôm béo ngậy về kho sền sệt ăn với cơm. Lúc người ta đói ăn gì cũng thấy ngon hết.
Còn một cách bắt cá khác là lưới cá bằng lưới bén. Tôi lên Cô Ba Mành ở xóm chợ Tham Nhiên. (Cô Ba Mành là bạn của Nội, nhà cô gần chỗ Nội bán bánh mà tôi sẽ có bài viết về xóm bánh. Cô cũng là bà ngoại của bạn Hùng ở xóm chợ, giờ cũng đã mất). Tôi nói với Cô:
- Cô Ba ơi, bán cho con cỡ 5 mét lưới nhen Cô Ba.
- Nay mày giăng ở đâu con?
- Dạ mương sau nhà bà Cô. Con “kết” cái mương đó lắm Cô Ba. Cá thiệt là nhiều!
Mang lưới về, tôi lại đi mua một nhánh tre vừa đủ để giăng ngang con mương nhà bà Cô. Mắc lưới bén vào cây tre xong, tôi thả lưới xuống mương. Lưới bén thì mỏng mảnh, trong suốt, ở trên có phao, dưới có chuỳ nặng và cá lội theo dòng nước, cứ hễ bơi ngang qua là mắc lưới. Lâu lâu tôi lại đi thăm lưới. Có phải hai lần, khi giở lưới lên, tôi tá hỏa, nhảy dựng, chạy vô nhà bà Cô kêu cứu….
- Dượng Ba ơiiiiiiiiiii…. Tôi hớt ha hớt hải chạy vô không kịp thở, vừa thở hổn hển vừa nói không thành lời. (Dượng Ba này là Dượng Ba Nết)
- Chuyện gì vậy mậy?
- Con cho Dượng lưới bén đó, Dượng tính giùm con hen. Con…..con….. con… rắn… nó mắc vô lưới con rồi.
- Thôi được rồi, để tao xử cho.
Vậy là coi như mất lưới bén đó luôn. Dượng Ba nấu cháo rắn với đậu xanh. Nghe đâu ăn cũng ngon lắm. Mà đời nào tôi dám thử? Tôi không sợ sâu, không sợ trùng, không sợ ong vò vẽ nhưng lại sợ rắn đã làm thịt. (Chắc là tôi gớm hơn là sợ thì có.)
Còn một cách bắt cá nữa là đặt lọp. Cái lọp làm bằng tre chung quanh, có một cửa nhỏ, con cá vô được nhưng ra thì không. Tôi ra chợ ngã Tư mua chừng một chục cái lọp, rồi cứ thế mà đào trùng bỏ vô lọp, canh nước lớn sau sông, đặt gần những kẹt bập dừa. Ôi, có lúc được mấy con cá bống dừa đen thui đen thủi, lớn bằng cườm tay tôi lúc đó, thấy mà ham. Cá bống dừa kho tiêu ăn với cháo trắng cũng ngon lắm. Cá này chiên giòn giằm nước mắm cũng rất ngon. Nội tôi hay thích cắt một tí dưa leo mong mỏng thả vô. Ăn kiểu này cũng ngon không kém.
Vó tép cũng là một cách bắt tép tôi đã từng làm qua. Cái vó bằng vải mùng, cắt vuông vuông, rồi chẻ hai thanh tre gắn chéo vào nhau như hình chữ thập, cột vào 4 góc vó, xong bắt thanh tre dài ở giữa để làm cần giở vó lên. Con tép thích sống ở trong đồng, là nước ngọt. Gần nhà tôi có một cái ao người ta đào cốt để nuôi cá tra, nên tôi ra đó đặt vó. Tép thích ăn cám rang, nên tôi nặn một cục đất sét, thấm tí nước, rồi lăn vô cám. Mùi cám rang rất thơm, rất hấp dẫn đối với con tép nên nó mò vô vó để ăn. Tôi vác chừng 5 cái vó, đi qua khỏi xóm chợ, lên trước nhà chú Ba Thới, gần trường Mẫu Giáo hồi xưa, thả vó xuống một hồi, ngồi canh rồi giở lên. Con tép nhảy nghe tạch tạch lúc vừa lên khỏi nước, thấy mà mê. Tép này về chấy để cuốn với bánh tráng, thêm chút chuối chát, lá cách, chấm mắm nêm của cô Năm Xẩm ăn ngon khỏi chê.
Quê Nội, quê Ngoại giờ xa cách ngàn trùng, nhưng miền ký ức của tuổi thơ về vùng quê thân yêu ấy mãi mãi không hề rời xa tôi, cho dù ở bất cứ thời gian hay không gian nào. Tôi cứ mãi gói ghém cái ký ức tuyệt đẹp về miền sông nước Nam Kỳ đó vào trong lòng, để khi có dịp ôn lại, hay kể lại cho con cháu nghe. Ngày xửa, ngày xưa…
ND